Cúm A là bệnh lý thường gặp, bệnh có thể gây biến chứng nặng, thậm chí đe dọa tới tính mạng. Vậy xét nghiệm cúm A khi nào cần?
Biểu hiện bệnh cúm là gì?
Bệnh cúm là bệnh đặc trưng do sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng toàn thân như đau đầu, sốt, gai rét, đau cơ đi kèm với các biểu hiện đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất rộng, thay đổi từ nhẹ, không sốt giống cảm cúm thông thường đến hội chứng nặng với biểu hiện của đường hô hấp nặng và suy đa tạng.
Sốt cao 38 – 39°C, chán ăn, mệt mỏi, tiểu ít, đau đầu, đau mỏi người.
Các biểu hiện đường hô hấp: bao giờ cũng xảy ra và xuất hiện ngay những ngày đầu với mức độ nặng nhẹ khác nhau: Biểu hiện viêm mũi họng: Hắt hơi, chảy nước mũi, chảy nước mắt. Các triệu chứng viêm thanh khí phế quản: ho khan, khàn tiếng… Thăm khám bệnh nhân cúm có thể không ghi nhận gì đặc biệt trong những trường hợp nhẹ. Trong những trường hợp nặng có thể thấy họng đỏ, hạch cổ, phổi có ít ran nổ….
Sốt thông thường kéo dài 2 – 5 ngày rồi giảm đột ngột. Bệnh nhân vã mồ hôi, tiểu nhiều, viêm họng giảm rồi biến mất. Sốt có thể giảm từ từ nhưng nếu sốt trở lại cần đề phòng biễn chứng. Thời kỳ lại sức kéo dài với các triệu chứng mệt mỏi, biếng ăn, mất ngủ.
Chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học rất khó chẩn đoán xác định nhiễm virus cúm đặc biệt nhiễm virus cúm A.
Theo tin tức xét nghiệm,để chẩn đoán xác định nhiễm virus cúm cần dựa vào các xét nghiệm virus học như nuôi cấy virut, phát hiện acid nucleic (PCR, RT-PCR) hay huyết thanh chẩn đoán.
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh hô cấp cấp tính do virut khác, Mycoplasma pneumoniae hay vi khuẩn…
Virut cúm có đặc điểm gì?
Virut cúm (Influenza virus) là thành viên họ Orthomyxoviridae, gồm 3 týp A, B và C. Virut cúm A được chia thành nhiều phân týp dựa trên kháng nguyên bề mặt ngưng kết hồng cầu Hemagglutinin (H) và neuraminidase (N).
Xét nghiệm cúm khi nào?
Xét nghiệm virut học: Phân lập virut từ dịch họng, dịch tỵ hầu, dịch phế quản hay đờm. Virut thường được phát hiện trong mô nuôi cấy hay ít phổ biến hơn được tìm thấy trong khoang màng ối của phôi gà sau 48 – 72 giờ sau tiêm truyền. Những xét nghiệm chẩn đoán nhiễm virut nhanh hiện nay phát hiện nucleoprotein hay neuraminidase của virut với độ đặc hiệu và độ nhạy cao từ 57 – 81% so với nuôi cấy mô. Acid nucleic của virut phát hiện trong những mẫu bệnh phẩm lâm sàng bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR), phiên mã ngược (RT-PCR). Định týp virut (A và B) có thể dùng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang hay HI. Những phương pháp huyết thanh học để chẩn đoán chủ yếu có ích trong nghiên cứu hồi cứu.
Những xét nghiệm khác không giúp nhiều cho chẩn đoán nhiễm virut cúm nhưng đánh giá tiên lượng bệnh và giúp ích cho điều trị như công thức máu: giảm bạch cầu, đặc biệt giảm tế bào lympho, giảm tiểu cầu mức độ nhẹ đến trung bình. Khi bạch cầu máu tăng có thể do nhiễm khuẩn thứ phát…