Top 7 # Đánh Giá Rủi Ro Hóa Chất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Beyondjewelries.com

Đánh Giá Rủi Ro Do Tiếp Xúc Hóa Chất

Hóa chất chỉ có thể gây nguy hiểm và ảnh hưởng đến sức khỏe con người khi chúng xâm nhập vào cơ thể. Có ba con đường chính hóa chất có thể xâm nhập vào cơ thể con người:

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể con người qua con đường hô hấp: là con đường khí,hơi, bụi hóa chất bị phổi hấp thu.

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể khi con người tiếp xúc hóa chất qua da và mắt: Khi hóa chất dạng rắn – lỏng – khí tiếp xúc cơ thể qua da hoặc mắt, hóa chất có thể làm tổn thương da tại nơi tiếp xúc hoặc hấp thu qua da thấm vào máu gây nguy hiểm cho cơ thể.

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể con người qua con đường tiêu hóa: Điều này có thể xảy ra khi hóa chất bị đổ vào thức ăn, đồ uống, hoặc hóa chất bị dính vào râu, tay hay thuốc lá. Cũng có thể xảy ra trường hợp hóa chất xâm nhập qua đường tiêu hóa khi hít phải các bụi hóa chất vào họng và nuốt nó. Khi hóa chất đi vào cơ thể qua đường tiêu hóa, một số hóa chất sẽ ngấm vào máu rồi đi khắp cơ thể ảnh hưởng đến cơ quan nội tạng như gan, thận … hoặc hệ thần kinh.

2. Các dạng hóa chất xâm nhập vào cơ thể

Trong quá trình lao động, người lao động thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hóa chất dạng chất rắn, lỏng, bụi, hơi, khí, sợi, khói và sương. Đối với những hóa chất dạng rắn và lỏng, người lao động có thể nhận biết được. Nhưng đối với các hóa chất dạng bụi và sương người lao động chỉ phát hiện được khi chúng có kích thước hạt lớn, nồng độ cao. Các hóa chất dạng hơi và khí, người lao động thường không nhận biết được, trừ một số loại có mùi.

Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ rủi ro khi tiếp xúc hóa chất:

– Mức độ độc của hóa chất: Hóa chất càng độc, càng có nhiều khả năng gây ra các vấn đề về sức khỏe, ngay cả với một lượng nhỏ. Tổ chức GHS đã phân loại mức độ độc của hóa chất thành 5 cấp độ (bảng 1)

– Khối lượng của hóa chất tiếp xúc: Hóa chất xâm nhập vào cơ thể khối lượng càng lớn, mức độ nguy hiểm càng cao.

– Thời gian tiếp xúc hóa chất: Thời gian tiếp xúc dai, mức độ nguy hiểm càng lớn. Thời gian tiếp xúc phải được xem xét cả thời gian tiếp xúc hàng ngày và thời gian thời gian lặp lại hàng tháng, hàng năm.

– Phản ứng hoặc tương tác với các hóa chất khác: Một số hóa chất có thể kết hợp với nhau tạo thành một chất khác nguy hiểm hơn so với chất gốc ban đầu. Hoặc một số hóa chất xâm nhập vào cơ thể có thể kết hợp với một số thói quen của người lao động (ví dụ hút thuốc) mà làm tăng mức độ nguy hiểm.

– Cá nhân người lao động (sức khỏe hiện tại, tuổi, giới tính, phụ nữ mang thai hoặc cho con bú): Do khả năng chịu đựng của người già và trẻ em hoặc phụ nữ mang thai thường yếu hơn so với người trưởng thành, nên mức độ nguy hiểm của hóa chất đối với đối tượng này thường cao hơn.

Năm 2017-2018, Viện KH An toàn và Vệ sinh Lao động đã xây dựng Hệ thống Quản lý An toàn và Vệ sinh Lao động cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc da vừa và nhỏ. Trong Hệ thống quản lý này, nhóm thực hiện đã áp dụng phương pháp chuyên gia lập ma trận đánh giá mức rủi ro của người lao động khi tiếp xúc với hóa chất. Về bản chất, phương pháp này không chỉ áp dụng cho các cơ sở sản xuất thuộc da, có thể áp dụng cho các công đoạn sản xuất có sử dụng hóa chất trong sản xuất công nghiệp.

Công thức tổng quát để xác định rủi ro:

RỦI RO = NGUY HIỂM x TIẾP XÚC

Trong đó, ý nghĩa của các tham số là:

– Nguy hiểm (hazard) là một đặc trưng của hóa chất hay chất thải, gắn liền với tính chất hóa lý và độc tính hay độc tính sinh thái của hóa chất hay chất thải đó.

– Tiếp xúc hay phơi nhiễm (exposure) là phương thức và mức độ hóa chất gây tác động đến người tiếp xúc. Tiếp xúc hay phơi nhiễm gây tác động cho con người (sức khỏe/tính mạng) phụ thuộc vào nồng độ hóa chất hay chất thải và cường độ tiếp xúc tới đối tượng chịu rủi ro trong một đơn vị thời gian.

– Nếu tính nguy hiểm (độ nguy hiểm và khối lượng) càng lớn thì rủi ro càng lớn, đồng thời tiếp xúc càng lớn (nồng độ hóa chất càng lớn và tổng thời gian tiếp xúc càng lớn) thì rủi ro càng lớn. Như vậy, tiếp xúc hóa chất sẽ có rủi ro lớn khi hóa chất tiếp xúc có độ nguy hiểm cao, khối lượng lớn, cường độ tiếp xúc với hóa chất cao, thời gian tiếp xúc dài, hay tần suất tiếp xúc với hóa chất lớn.

Mức độ tiếp xúc của hóa chất được xác định thông qua sự kết hợp của hai yếu tốnồng độ tiếp xúc và tần suất tiếp xúc

Bước 4: Xác định mức rủi ro tiếp xúc hóa chất

(Nguồn tin: chúng tôi

Mức tần suất tiếp xúc là khoảng thời gian tiếp xúc tính theo giờ trong một ca làm việc hoặc tổng số giờ làm việc mỗi năm của người lao động tại nơi làm việc. Khi tần suất lớn hơn một tuần sử dụng tỷ số của giờ tiếp xúc trên số giờ của một ca làm việc.

Mức nồng độ tiếp xúc được xác định từ các giá trị đo được trong môi trường lao động(đối với hóa chất là dạng khí) hay số lượng hóa chất tiếp xúc (đối với hóa chất dạng rắn và lỏng) có tính thêm các đặc trưng hóa lý của hóa chất đó.

Đối với hóa chất tiếp xúc dạng khí:

Mức nồng độ hóa chất tiếp xúc dạng khí là tỉ số của giá trị quan trắc trong môi trường lao động và giới hạn cho phép của hóa chất trong vùng làm việc (ví dụ trong quyết định 3733/2002/QĐ-BYT của Bộ Y Tế)

Đối với hóa chất dạng rắn và lỏng:

Mức nồng độ hóa chất tiếp xúc dạng lỏng, rắn là sự kết hợp của các yếu tố như khối lượng hóa chất tiếp xúc, khả năng bay hơi hoặc độ bụi của hóa chất, người lao động tiếp xúc với hóa chất có sử dụng các thiết bị bảo vệ cá nhân hay không.

Công thức xác định mức rủi ro tiếp xúc hóa chất được xác định là:

Mức độ rủi ro tiếp xúc = Mức nguy hiểm x Mức tiếp xúc

Trong ma trận trên, nếu sắp xếp ma trậng rủi ro tiếp xúc theo bảng quan hệ mức độ nguy hiểm và mức độ tiếp xúc từ 1 là mức thấp nhất, sau đó đến 2, 3, 4, 5 theo chiều cột từ trên xuống dưới và từ trái sang phải, thì có thể phân chia các vùng rủi ro theo hình 2. Các vùng rủi ro cao nhất nằm ở góc cao bên trái có mầu đỏ. Mầu xanh ở góc thấp bên phải là vùng có rủi ro thấp. Các ô nằm giữa màu vàng thể hiện rủi ro cao hoặc trung bình.

Như vậy, dựa vào kết quả của ma trận với mức độ định lượng nhất định, doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp quản lý để giảm nguy cơ tiếp xúc hóa chất cho người lao động trong môi trường làm việc.

Đánh Giá Rủi Ro Do Tiếp Xúc Hóa Chất

Hóa chất chỉ có thể gây nguy hiểm và ảnh hưởng đến sức khỏe con người khi chúng xâm nhập vào cơ thể. Có ba con đường chính hóa chất có thể xâm nhập vào cơ thể con người:

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể con người qua con đường hô hấp: là con đường khí,hơi, bụi hóa chất bị phổi hấp thu.

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể khi con người tiếp xúc hóa chất qua da và mắt: Khi hóa chất dạng rắn – lỏng – khí tiếp xúc cơ thể qua da hoặc mắt, hóa chất có thể làm tổn thương da tại nơi tiếp xúc hoặc hấp thu qua da thấm vào máu gây nguy hiểm cho cơ thể.

– Hóa chất xâm nhập vào cơ thể con người qua con đường tiêu hóa: Điều này có thể xảy ra khi hóa chất bị đổ vào thức ăn, đồ uống, hoặc hóa chất bị dính vào râu, tay hay thuốc lá. Cũng có thể xảy ra trường hợp hóa chất xâm nhập qua đường tiêu hóa khi hít phải các bụi hóa chất vào họng và nuốt nó. Khi hóa chất đi vào cơ thể qua đường tiêu hóa, một số hóa chất sẽ ngấm vào máu rồi đi khắp cơ thể ảnh hưởng đến cơ quan nội tạng như gan, thận … hoặc hệ thần kinh.

2. Các dạng hóa chất xâm nhập vào cơ thể

Trong quá trình lao động, người lao động thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hóa chất dạng chất rắn, lỏng, bụi, hơi, khí, sợi, khói và sương. Đối với những hóa chất dạng rắn và lỏng, người lao động có thể nhận biết được. Nhưng đối với các hóa chất dạng bụi và sương người lao động chỉ phát hiện được khi chúng có kích thước hạt lớn, nồng độ cao. Các hóa chất dạng hơi và khí, người lao động thường không nhận biết được, trừ một số loại có mùi.

Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ rủi ro khi tiếp xúc hóa chất:

– Mức độ độc của hóa chất: Hóa chất càng độc, càng có nhiều khả năng gây ra các vấn đề về sức khỏe, ngay cả với một lượng nhỏ. Tổ chức GHS đã phân loại mức độ độc của hóa chất thành 5 cấp độ (bảng 1)

– Khối lượng của hóa chất tiếp xúc: Hóa chất xâm nhập vào cơ thể khối lượng càng lớn, mức độ nguy hiểm càng cao.

– Thời gian tiếp xúc hóa chất: Thời gian tiếp xúc dai, mức độ nguy hiểm càng lớn. Thời gian tiếp xúc phải được xem xét cả thời gian tiếp xúc hàng ngày và thời gian thời gian lặp lại hàng tháng, hàng năm.

– Phản ứng hoặc tương tác với các hóa chất khác: Một số hóa chất có thể kết hợp với nhau tạo thành một chất khác nguy hiểm hơn so với chất gốc ban đầu. Hoặc một số hóa chất xâm nhập vào cơ thể có thể kết hợp với một số thói quen của người lao động (ví dụ hút thuốc) mà làm tăng mức độ nguy hiểm.

– Cá nhân người lao động (sức khỏe hiện tại, tuổi, giới tính, phụ nữ mang thai hoặc cho con bú): Do khả năng chịu đựng của người già và trẻ em hoặc phụ nữ mang thai thường yếu hơn so với người trưởng thành, nên mức độ nguy hiểm của hóa chất đối với đối tượng này thường cao hơn.

Năm 2017-2018, Viện KH An toàn và Vệ sinh Lao động đã xây dựng Hệ thống Quản lý An toàn và Vệ sinh Lao động cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc da vừa và nhỏ. Trong Hệ thống quản lý này, nhóm thực hiện đã áp dụng phương pháp chuyên gia lập ma trận đánh giá mức rủi ro của người lao động khi tiếp xúc với hóa chất. Về bản chất, phương pháp này không chỉ áp dụng cho các cơ sở sản xuất thuộc da, có thể áp dụng cho các công đoạn sản xuất có sử dụng hóa chất trong sản xuất công nghiệp.

Công thức tổng quát để xác định rủi ro:

RỦI RO = NGUY HIỂM x TIẾP XÚC

Trong đó, ý nghĩa của các tham số là:

– Nguy hiểm (hazard) là một đặc trưng của hóa chất hay chất thải, gắn liền với tính chất hóa lý và độc tính hay độc tính sinh thái của hóa chất hay chất thải đó.

– Tiếp xúc hay phơi nhiễm (exposure) là phương thức và mức độ hóa chất gây tác động đến người tiếp xúc. Tiếp xúc hay phơi nhiễm gây tác động cho con người (sức khỏe/tính mạng) phụ thuộc vào nồng độ hóa chất hay chất thải và cường độ tiếp xúc tới đối tượng chịu rủi ro trong một đơn vị thời gian.

– Nếu tính nguy hiểm (độ nguy hiểm và khối lượng) càng lớn thì rủi ro càng lớn, đồng thời tiếp xúc càng lớn (nồng độ hóa chất càng lớn và tổng thời gian tiếp xúc càng lớn) thì rủi ro càng lớn. Như vậy, tiếp xúc hóa chất sẽ có rủi ro lớn khi hóa chất tiếp xúc có độ nguy hiểm cao, khối lượng lớn, cường độ tiếp xúc với hóa chất cao, thời gian tiếp xúc dài, hay tần suất tiếp xúc với hóa chất lớn.

Mức độ tiếp xúc của hóa chất được xác định thông qua sự kết hợp của hai yếu tốnồng độ tiếp xúc và tần suất tiếp xúc

Bước 4: Xác định mức rủi ro tiếp xúc hóa chất

(Nguồn tin: chúng tôi

Mức tần suất tiếp xúc là khoảng thời gian tiếp xúc tính theo giờ trong một ca làm việc hoặc tổng số giờ làm việc mỗi năm của người lao động tại nơi làm việc. Khi tần suất lớn hơn một tuần sử dụng tỷ số của giờ tiếp xúc trên số giờ của một ca làm việc.

Mức nồng độ tiếp xúc được xác định từ các giá trị đo được trong môi trường lao động(đối với hóa chất là dạng khí) hay số lượng hóa chất tiếp xúc (đối với hóa chất dạng rắn và lỏng) có tính thêm các đặc trưng hóa lý của hóa chất đó.

Đối với hóa chất tiếp xúc dạng khí:

Mức nồng độ hóa chất tiếp xúc dạng khí là tỉ số của giá trị quan trắc trong môi trường lao động và giới hạn cho phép của hóa chất trong vùng làm việc (ví dụ trong quyết định 3733/2002/QĐ-BYT của Bộ Y Tế)

Đối với hóa chất dạng rắn và lỏng:

Mức nồng độ hóa chất tiếp xúc dạng lỏng, rắn là sự kết hợp của các yếu tố như khối lượng hóa chất tiếp xúc, khả năng bay hơi hoặc độ bụi của hóa chất, người lao động tiếp xúc với hóa chất có sử dụng các thiết bị bảo vệ cá nhân hay không.

Công thức xác định mức rủi ro tiếp xúc hóa chất được xác định là:

Mức độ rủi ro tiếp xúc = Mức nguy hiểm x Mức tiếp xúc

Trong ma trận trên, nếu sắp xếp ma trậng rủi ro tiếp xúc theo bảng quan hệ mức độ nguy hiểm và mức độ tiếp xúc từ 1 là mức thấp nhất, sau đó đến 2, 3, 4, 5 theo chiều cột từ trên xuống dưới và từ trái sang phải, thì có thể phân chia các vùng rủi ro theo hình 2. Các vùng rủi ro cao nhất nằm ở góc cao bên trái có mầu đỏ. Mầu xanh ở góc thấp bên phải là vùng có rủi ro thấp. Các ô nằm giữa màu vàng thể hiện rủi ro cao hoặc trung bình.

Như vậy, dựa vào kết quả của ma trận với mức độ định lượng nhất định, doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp quản lý để giảm nguy cơ tiếp xúc hóa chất cho người lao động trong môi trường làm việc.

Quy Trình Đánh Giá Rủi Ro Do Phát Thải Hóa Chất

Rủi ro nói chung xuất phát từ nguồn có thể gây rủi ro, tức là các nguồn nguy hiểm hay là các mối nguy hiểm. Các nguồn nguy hiểm có thể gây rủi ro sẽ phát sinh sự cố khi và chỉ khi khả năng xẩy ra sự cố là 100% (hay là xác suất xẩy ra là 1), Nhưng sự cố mặc dù đã xẩy ra nhưng chưa chắc đã gây nên hậu quả gì, có thể do sự cố xẩy ra ở quá xa các đối tượng nhạy cảm với mối nguy, hoặc cường độ các nguy hiểm là nhỏ so với đối tượng nhạy cảm; nghĩa là khi đó hậu quả là “0”. Trong trường hợp này “RỦI RO” được coi là “0” hay không có rủi ro mặc dù có mối nguy hiểm nhất định. trong trường hợp xác xuất sự cố thấp hơn 100%, các nguồn nguy hiểm có thể sẽ không bao giờ xảy ra sự cố.

Tuy nhiên, trên thực tế không thể chắc chắn là sự cố không xẩy ra, vì sự cố sẽ có thể xẩy ra trong một hoàn cảnh hay điều kiện nào đó. Việc xác định khả năng xẩy ra sự cố từ một nguồn nguy hiểm được gọi là ước định xác suất. Giá trị của xác suất là từ “0” (nghĩa khi hoàn toàn không thể xẩy ra, cho đến “1” nghĩa là chắc chắn sự cố sẽ xẩy ra. Giá trị càng gần với “1” bao nhiêu thì có nghĩa độ chắc chắn càng cao bấy nhiêu). Chính vì vậy ước định xác suất là một bài toán dự báo (cho phép có sai số) dựa trên các mô hình, số liệu thống kê và kinh nghiệm.

Việc xác định hậu quả của một sự cố khi sự cố chưa xẩy ra là dựa hoàn toàn trên các giả thiết, các giả thiết này dựa trên hoàn cảnh thực tế của khu vực có tồn tại các mối nguy hiểm, mối tương quan giữa mối nguy hiểm và các đối tượng nhạy cảm (con người, môi trường, địa hình, thời tiết, điều kiện xã hội…). Hoàn toàn có khả năng cùng một mối nguy hiểm, cùng 1 khả năng (xác suất) xẩy ra, nhưng hậu quả nếu như sự cố xẩy rư từ mối nguy hiểm đó là khác nhau nếu xem xét ở các khu vực khác nhau. Do đó việc ước định hậu quả của sự cố chính là quá trình nghiên cứu, khảo sát và đánh giá dựa trên các kịch bản (các giả định). Rủi ro do phát thải hóa chất được tính bằng tích số của tính nguy hiểm và mức độ tiếp xúc của đối tượng với hóa chất nguy hại.

Công thức tổng quát để xác định mức độ rủi ro:

RỦI RO = NGUY HIỂM x TIẾP XÚC

Trong đó, ý nghĩa của các tham số là:

(hazard) là một đặc trưng của hóa chất hay chất thải, gắn liền với tính chất hóa lý và độc tính hay độc tính sinh thái của hóa chất hay chất thải đó. Ngoài ra, mức độ nguy hiểm còn được đặc trưng bởi khối lượng phát thải hóa chất.

Tiếp xúc hay phơi nhiễm (exposure) là phương thức và mức độ hóa chất hay chất thải gây ra các tác động đến môi trường hay các hệ sinh thái nói chung hay con người nói riêng. Tiếp xúc hay phơi nhiễm gây tác động cho môi trường và con người (sức khỏe/tính mạng) phụ thuộc vào nồng độ hóa chất hay chất thải và cường độ tiếp xúc tới đối tượng chịu rủi ro trong một đơn vị thời gian.

Nếu tính nguy hiểm (độ nguy hiểm và khối lượng) càng lớn thì rủi ro càng lớn, đồng thời tiếp xúc càng lớn (nồng độ hóa chất càng lớn và tổng thời gian tiếp xúc càng lớn) thì rủi ro càng lớn. Như vậy, phát thải hóa chất sẽ có rủi ro lớn khi hóa chất phát thải có độ nguy hiểm cao, khối lượng phát thải lớn), cường độ tiếp xúc với hóa chất cao, thời gian tiếp xúc dài, hay tần suất tiếp xúc với hóa chất phát thải lớn.

Hình 1. Sơ đồ quy trình đánh giá rủi ro

Quá trình đánh giá rủi ro tới sức khỏe con người đối với hóa chất độc hại thường được thực hiện theo 4 bước như sau:

1. Nhận diện nguy hiểm từ loại hình công nghiệp với đặc trưng phát thải hóa chất độc hại;

2. Đánh giá phát thải hóa chất độc hại;

3. Đánh giá liều phơi nhiễm gây rủi ro về sức khỏe con người và vi sinh vật của các hóa chất độc hại;

4. Đánh giá các yếu tố gây rủi ro.

Đánh Giá Rủi Ro Và Đánh Giá Định Lượng Rủi Ro

Đánh giá rủi ro và đánh giá định lượng rủi ro được ghi rõ trong QCVN 11 : 2012/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mức rủi ro chấp nhận được trong đánh giá định lượng rủi ro cho các hoạt động dầu khí, xăng dầu, hóa chất và nhiệt điện do Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp trình duyệt, Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành theo Thông tư số 50/2012/TT-BCT ngày 28 tháng 12 năm 2012.

Rủi ro: Là sự kết hợp khả năng xảy ra các sự cố, tai nạn và hậu quả của chúng.

Mức rủi ro: Là khả năng xảy ra tử vong cá nhân do rủi ro trong các hoạt động hoặc công trình gây ra. Ví dụ mức rủi ro 1.00E-0 là khả năng xảy ra rủi ro tử vong 1 người/năm.

Đánh giá rủi ro: Là việc nhận diện, xác định các rủi ro tiềm tàng là cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro đến mức hợp lý có thể thực hiện được.

Đánh giá định lượng rủi ro: Là việc phân tích, tính toán tần suất và hậu quả của sự cố dựa trên các phương pháp, dữ liệu đã được công bố và thừa nhận rộng rãi trên thế giới.

Mức rủi ro chấp nhận được: Là mức độ rủi ro cho phép đối với con người.

Đánh giá định lượng rủi ro (QRA)

Phương pháp đánh giá định lượng sử dụng các giá trị được biểu diễn bằng các con số (thay vì là các mức độ / quy mô được mô tả bằng lời trong phương pháp đánh giá định tính) đối với cả hai đại lượng là mức độ nghiêm trọng của hậu quả và xác suất xảy ra sự cố, sử dụng các số liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Chất lượng của việc đánh giá phụ thuộc vào mức độ chính xác và mức độ hoàn chỉnh của các giá trị được lượng hóa sử dụng trong đánh giá.

Mức độ hậu quả có thể được ước lượng bằng cách mô hình hóa hậu quả của một hoặc nhiều sự cố, hoặc bằng cách phân tích dữ liệu của các công trình nghiên cứu hoặc các số liệu trong quá khứ. Mức độ thiệt hại của hậu quả có thể được thể hiện bằng số tiền, bằng các tiêu chuẩn về con người hoặc thiết bị công nghệ. Trong một số trường hợp, có thể sử dụng đến hai giá trị biểu diễn bằng con số để xác định hậu quả đối với các thời điểm, địa điểm, nhóm công việc hoặc tình huống khác nhau.

Khả năng xảy ra sự cố thường được thể hiện bằng xác suất, tần suất xảy ra sự cố, hoặc có thể kết hợp giữa yếu tố xác suất và mức độ phơi nhiễm/ tiếp xúc với yếu tố nguy hiểm.

Quy chuẩn QCVN 11 : 2012/BCT quy định về mức rủi ro chấp nhận được đối với con người trong đánh giá định lượng rủi ro cho các hoạt động dầu khí, xăng dầu, hóa chất và nhiệt điện trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mức rủi ro chấp nhận được: Là mức độ rủi ro cho phép đối với con người.

Mức rủi ro đương nhiên được chấp nhận: Là mức rủi ro thấp đến mức việc giảm rủi ro không có ý nghĩa về mặt an toàn.