Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Hông Và Eo mới nhất trên website Beyondjewelries.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Eo
Eo là một phần của cơ thể mà tại đó chiều rộng của cơ thể bạn là nhỏ nhất. Đó là khu vực ngay phía trên rốn sẽ tốt hơn khi nó thon hơn so với khi nó dày. Một người phụ nữ quyến rũ hơn được xem xét nếu cô ấy có một vòng eo thon hơn so với khi cô ấy dày và có một vòng eo lớn. Tất nhiên, điều quan trọng là phải có thân hình thon gọn và ít mỡ trong cơ thể, nhưng điều quan trọng hơn là phải có mỡ ở đúng nơi trên cơ thể để trông cân đối và quyến rũ. Eo là một phần của cơ thể mang lại vóc dáng đồng hồ cát cho người phụ nữ nếu cô ấy có vòng eo nhỏ. Đàn ông có vòng eo rộng hơn phụ nữ, nhưng họ cũng trông tuyệt vời và cân đối khi có vòng eo thon.
Hông
Hông là phần cơ thể ngay phía trên đùi. Trên thực tế, phần lớn phần trên của đùi được coi là hông, và nó chỉ thấp hơn eo của một người. Hông là thịt ở cả nam và nữ và trên thực tế, chúng làm cho một người trông đẹp khi họ có cấu trúc xương được bao phủ bởi một số chất béo. Để đo hông của bạn, bạn cần đo chúng ở nơi chúng rộng nhất để có được số đo phù hợp. Đó là chu vi vòng eo so với hông đang được các bác sĩ sử dụng để đánh giá các rủi ro sức khỏe mà một người phải đối mặt thường xuyên hơn so với chỉ số BMI trước đó.
Sự khác biệt giữa hông và eo là gì?
* Phụ nữ có xu hướng có vòng eo thon hơn nam giới.
* Phụ nữ có xu hướng có hông dày hơn nam giới vì họ có xương chậu lớn hơn nam giới.
* Các bác sĩ phụ thuộc nhiều hơn vào khẩu phần từ eo đến hông để đánh giá rủi ro sức khỏe cho cá nhân những ngày này so với chỉ số BMI trước đó.
* Vòng eo thon gọn mang lại cho phụ nữ thân hình đồng hồ cát mà họ khao khát
* Đàn ông có xu hướng có vòng eo lớn hơn hông.
* Hông rất quan trọng để di chuyển, đi lại và chạy trong khi eo cung cấp sự ổn định cho cơ bắp trong dạ dày.
* Hai người này cũng là bộ phận cơ thể có xu hướng lưu trữ chất béo nhanh chóng làm cho một cá nhân mất hình dạng.
Sự Khác Biệt Giữa Định Lượng Và Định Tính
The difference between Qualitative Research and Quantitative Research
Qualitative Research is primarily exploratory research – Quantitative Research is used to quantify the problem.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA ĐỊNH LƯỢNG VÀ ĐỊNH TÍNH – ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ (Nguồn: nhanhoc07.blogspot.com) I. SỰ KHÁC NHAU GIỮA NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp định lượng và định tính có vai trò rất lớn đối với đề tài nghiên cứu, hai phương pháp này sẽ giúp nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu một cách chính xác và nhanh chóng tuy nhiên hai phương pháp này lại trái ngược nhau về cách thức và phương pháp hoạt động.
1/ Về định nghĩa:
Đối với nghiên cứu định tính thì chủ yếu thu thập dữ liệu bằng chữ và là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của nhóm người từ quan điểm của nhà nhân học.
Còn với nghiên cứu định lượng thì chủ yếu thu thập dữ liệu bằng số và giải quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo quan điểm diễn dịch.
Trong nghiên cứu định tính nhà nghiên cứu sử dụng theo hình thức quy nạp, tạo ra lý thuyết, phương pháp nghiên cứu định tính còn sử dụng quan điểm diển giải, không chứng minh chỉ có giải thích và dùng thuyết kiến tạo trong nghiên cứu, có nghĩa là nhà nghiên cứu dựa vào các lý thuyết để xây dựng cho mình một hướng nghiên cứu phù hợp với điều kiện.
Còn trong nghiên cứu định lượng chủ yếu là kiểm dịch lý thuyết, sử dụng mô hình Khoa học tự nhiên thực chứng luận, phương pháp NCĐL có thể chứng minh được trong thực tế và theo chủ nghĩa khách quan, do là phương pháp chủ yếu sử dụng con số và tính khách quan cao nên phương pháp định lượng có độ trung thực cao.
3/ Về cách thực thực hiện:
Nghiên cứu định tính là một trong những nghiên cứu đòi hỏi ở nhà nghiên cứu khả năng quan sát và chọn mẫu cho phù hợp vì đây là giai đoạn đầu để hình thành nên đề tài, phương pháo nghiên cứu định tính chủ yếu sử dụng các biện pháp mang tính chủ quan như :
a/ Phỏng vấn sâu :
– phỏng vấn không cấu trúc.
– phỏng vấn bán cấu trúc.
– phỏng vấn cấu trúc hoặc hệ thống.
c/ Quan sát tham dự:
Đối với nghiên định lượng nhà nghiên cứu phải:
– Nghiên cứu thực nghiệm thông qua các biến.
– nghiên cứu đồng đại chéo có nghĩa là thiết kế n/c trong đó các dữ liệu được thu thập trong cùng một thời điểm.
– vd : nghiên cứu việc học của con gái ở thành thị và nông thôn.
– Nghiên cứu lịch đại thì dữ liệu thu thập theo thời gian trong đó các dữ liệu được so sánh theo thời gian.
– Nghiên cứu trường hợp là thiết kế nghiên cứu tập trung vào một trường hợp cụ thể.
– Nghiên cứu so sánh là thiết kế n/c trong cùng một thời điểm hay qua nhiều thời điểm.
4/ Cách chọn mẫu:
§ Trong nghiên cứu định tính:
– chọn mẫu xác xuất :
– mẫu xác xuất ngẫu nhiên.
– mẫu xác xuất chùm
– mẫu hệ thống.
– mẫu phân tầng.
– mẫu cụm.
– chọn mẫu phi xác xuất.
§ Trong nghiên cứu định lượng:
– theo thứ tự.
– câu hỏi đóng – mở.
– câu hỏi được soạn sẵn.
– câu hỏi ngắn ngọn, xúc tích.
– câu hỏi không gây tranh luận.
5/ Cách lập bảng hỏi.
a/ Trong nghiên cứu định tính
– không theo thứ tự.
– câu hỏi mở.
– câu hỏi dài.
– câu hỏi gây tranh luận.
b/ Đối với nghiên cứu định lượng:
– theo thứ tự.
– câu hỏi đóng – mở.
– câu hỏi được soạn sẵn.
– câu hỏi ngắn ngọn, xúc tích.
– câu hỏi không gây tranh luận.
II. ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG.
Đối với bất kì một phương pháp nào cũng đều có điểm mạnh và hạn chế của nó, không có một phương pháo nào hoàn hảo chính vì vậy mà khi làm một đề tài nghiên cứu nhà nghiên cứu thường sử dụng rất nhiều phương pháp trong việc thu thập và sử lí thông tin, thường thì các phương pháp là khác nhau nhưng nó lại hổ trợ cho nhau rất nhiều.
Với phương pháp nghiên cứu định lượng cũng vậy nó cũng có điểm mạnh và hạn chế riêng của nó cụ thể như trong điều tra KAP .
– Sự phiên dịch lại về mặt văn hóa: xảy ra khi đối tượng phỏng vấn không hiểu câu hỏi đặt ra như ý định của nhà nghiên cứu mà lại hiểu khác đi và trả lời theo cách hiểu của họ.
Nghiên cứu định tính cho phép các nghiên cứu viên hạn chế các sai số ngữ cảnh bằng cách sử dụng các kỹ thuật phỏng vấn và tạo ra một môi trường phỏng vấn mà trong đó đối tượng cảm thấy thoải mái nhất.
Các phương pháp này thu thập thông tin khác nhau đem lại thông tin khác nhau. Vì vậy trước khi quyết định sử dụng phương pháo nào cần phải xác định loại thông tin nào cần thiết nhất cho mục đích nghiên cứu Các phương pháp NCĐT và NCĐL có thể kết hợp để bổ sung lẫn cho nhau.
Ví dụ:
– NCĐL có thể hỗ trợ cho NCĐT bằng cách khái quát hóa các phát hiện ra một mẫu lớn hơn hay nhận biết các nhóm cần nghiên cứu sâu
– NCĐT có thể giúp giải thích các mối quan hệ giữa các biến số được phát hiện trong các NCĐL.
Trong một nghiên cứu khác về phương pháp nghiên cứu định lượng trong nghiên cứu thị trường của tác giả Trần Thị Thu Phượng thì tác giả cho rằng Nghiên cứu thị trường có thể được chia thành hai nhóm: các phương pháp phân tích định tính đối lại với định lượng.
Trong những năm 1970-80, các phương pháp định tính chiếm ưu thế. Chúng dựa vào tâm lý học nhằm khám phá, tìm hiểu sở thích của người tiêu dùng, cách ứng xử hay hành vi của họ. Nhờ đó, doanh nghiệp có được thông tin tốt hơn trong việc lựa chọn các chiến lược phân khúc thị trường (segmentation), định giá (pricing), khuyến mãi (promotion), marketing mix, và xây dựng thương hiệu (brand equity). Nhưng gần đây, kết quả nghiên cứu của các phương pháp định tính này không mấy khả quan. Như Peter Rossi (University of Chicago) và Marco Vriens (Microsoft Corp) đã chỉ ra: “tỷ lệ trả lời [các câu hỏi phỏng vấn] thấp tới mức đáng ngại. Câu trả lời cho các bảng hỏi dài của nghiên cứu thị trường thường bị quá thiên lệch, và “những “nhà chuyên nghiệp” giờ đây cũng hành ghề trong focus groups và những phương pháp nghiên cứu đinh tính khác.
Một dòng nghiên cứu thị trường khác là các phương pháp định lượng phổ biến mạnh nhất ở Mỹ. Dòng nghiên cứu này bắt đầu vào khoảng cuối thập kỷ 1970, nhờ sự tiến bộ của các công cụ đo lường kinh tế (econometrics), mà nó cho phép phân tích và đánh giá tác động tâm lý của người tiêu dùng vào hành vi chi tiêu của họ.
Để hình dung, ta hãy xét một ví dụ cụ thể. Ai trong chúng ta đôi khi cũng phải ra một quyết địnhlớn như lập gia đình, xây nhà, hoặc mua xe ô tô. Khi đó, trong đầu bạn diễn ra những cân nhắc thiệt hơn của việc làm một quyết định lớn như vậy. Nếu ích lợi ròng của việc mua sắm đó là dương, thì bạn quyết định mua, và nếu là âm, thì bạn không mua.
Độ lớn của ích lợi ròng này phụ thuộc vào một loạt các yếu tố, như nghề nghiệp, thu nhập, tình trạng hôn nhân, và sở thích, vân vân. Không ai có thể “đọc” được những phân tích thiệt hơn như vậy trong đầu bạn. Nhưng rõ ràng là các đại lý bán nhà đất hoặc xe hơi có thể quan sát được hành động của bạn. Tức là việc bạn quyết định mua hay không.
Quan trọng hơn, các quyết định đó bộc lộ ý nguyện tiềm ẩn trong đầu bạn. Rằng nhu cầu mua sắm đó đã đủ chín muồi chưa để đi đến quyết định mua. Dựa vào quan hệ như vậy, đại lý bán xe hơi có thể dự đoán đuợc khả năng bạn sẽ mua xe (tức là mức độ chín muồi của quyết định như vậy), nếu như biết được các dữ kiện về thu nhập, tình trạng gia đình, và sở thích về sở hữu xe hơi của bạn.
(Yếu tố cuối cùng có thể được đo lường được, nhờ chấm điểm từ 1, 2,…, đến 5 chẳng hạn, thể hiện mức độ ưa thích tăng dần). Nhờ vào những phân tích định lượng này, các nhà đại lý nhà đất hay bán xe hơi có thể xác định được nhu cầu tiềm tàng của lớp người tiêu dùng trên thị trường ngách của họ.
Ví dụ nêu trên bao hàm bốn điểm quan trọng đáng được nhấn mạnh lại.
Thứ hai, dựa trên cơ sở lý thuyết về các mối quan hệ kinh tế nêu trên, người làm nghiên Cứu thị trường có thể lập ra những bảng hỏi ngắn gọn, logic, có độ “phân giải” cao, hàm ý rất rõ ràng, “sắc nét”. Ở đây, ta thấy có sự giao lưu giữa phương pháp định tính và định Lượng trong nghiên cứu thị trường. Cả hai phương pháp đều dựa trên việc điều tra để lấy thông tin về người tiêu dùng hay nhà phân phối. Nhưng bảng hỏi của phương pháp định lượng thường ngắn hơn, cụ thể hơn, và chỉ tập trung vào các yếu tố chứa đựng lượng thông tin lớn nhất cho việc lý giải hành vi của đối tượng được nghiên cứu. Sự lựa chọn các yếu tố mang thông tin đó không lệ thuộc nhiều vào khả năng hiểu biết về tâm lý học của người lập bảng hỏi. Nó được chỉ dẫn bởi lý thuyết kinh tế, đúc kết từ các tương tác trong kinh doanh của hàng triệu tác nhân trong bối cảnh tương tự với đối tượng được nghiên cứu. Trong kinh tế học lý thuyết này được gọi là lý thuyết trò chơi.
Thứ ba, dựa vào dữ liệu thu thập được, các phương pháp đo lường kinh tế cho phép đánhgiá các quan hệ kinh tế, với độ tin cậy xác định về mặt thống kê. Những đánh giá đó có thể được sử dụng cho phân tích và dự báo. Không ngạc nhiên, những kỹ thuật đo lường này cũng được sử dụng từ phân tích và dự báo thời tiết, cho đến việc xác định quỹ đạo của tên lửa bắn tới các hành tinh. Nếu nhìn một cách thuần tuý định tính, chúng ta có thể mô tả với một danh sách rất dài và phức tạp về các đặc trưng của một cơn bão. Nhưng dựa trên đo lường kinh tế, bằng cách chỉ tập trung vào những yếu tố khí tượng thủy văn thiết yếu nhất, ta có thể dự báo khá chính xác đường đi và vận tốc của cơn băo, mà không một phân tích định tính nào có thể hy vọng làm được như vậy.
Cuối cùng, kết quả phân tích và dự báo định lượng được đối chiếu lại với cơ sở lý luận cho việc lập mô hình phân tích và dự báo. Sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn sẽ cho phép cho ra những quyết định kinh doanh rất có lợi cho công ty, như là hệ quả trực tiếp của việc có được những thông tin đáng tin cậy về thị trường. Một phân tích thực nghiệm không phù hợp với lý thuyết thường dẫn tới việc kiểm định lại lý thuyết hay cách đặt vấn đề, mà dựa vào đó để lập mô hình phân tích. Điều đó dẫn đến vòng lặp: lý thuyết định hướng việc nghiên cứu thực tiễn; và kết quả phân tích thực tiễn thúc đẩy sự phát triển của lý luận. Có lẽ chính nhờ vòng lặp này, mà các quan điểm kinh tế thực chứng hay “thực dụng” kiểu Mỹ chiếm ưu thế hơn hẳn so với trường phái kinh viện ở châu Âu, nơi cho đến giờ vẫn tiên phong về vẻ đẹp thuần tuý của lý thuyết với tính trừu tượng của nó.
Như vậy với hai ví dụ này chúng ta có thể thấy rằng phương pháp định lượng có nhiều điểm mạnh và hạn chế mà chúng ta cân lưu ý tới.
III. ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH.
Tìm hiểu từ bài nghiên cứu: MẠI DÂM Ở VIỆT NAM: CÁC TÁC ĐỘNG TỚI DỰ PHÒNG HIV/AIDS? – Tác giả: Vũ Ngọc Bảo
TÓM TẮT: Bài viết nghiên cứu tập trung tìm hiểu các yếu tố hoàn cảnh văn hóa- xã hội chi phối việc những người mại dâm nữ (NMDN) và khách hàng của họ thực hiện hành vi tình dục có nguy cơ. Các phát hiện thu được từ một nghiên cứu Nhân học tiến hành ở tỉnh Cần Thơ thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả điều tra cho thấy nguyên nhân chủ yếu khiến NMDN thực hiện hành vi quan hệ tình dục không an toàn- tình dục không dung bao cao su là nỗi lo sợ bị bắt giữ trong thời gian diễn ra chiến dịch phòng chống “tệ nạn xã hội”. Vì mại dâm có tính di biến động và trá hình, NMDN gặp khó khăn khi tiếp cận và sử dụng bao cao su.. Khách hang nam giới thường là người ra quyết định về việc dung bao cao su trong quan hệ tình dục. NMDN không có khả năng kinh tế và khả năng thương thuyết để yêu cầu một khách hang tiềm năng sử dụng bao cao su, trong khi đó, khách hang thường dựa theo sở thích cảm tính và các niềm tin cá nhân và khoái cảm tình dục và tình dục “an toàn” đề quyết định dùng hay không dùng bao cao su. Nghiên cứu gợi ý cần tăng cường quảng bá rộng rãi cách tiếp cận theo hướng giảm thiểu nguy cơ và can thiệp dành cho nam giới qua các chương trình thay đổi hành vi đối với NMDN và khách hàng của họ.
ƯU ĐIỂM
1. Xem xét vấn đề bằng nhãn quan của đối tượng nghiên cứu:
Bằng các phương pháp phỏng vấn sâu và quan sát, nhà nghiên cứu đã phát hiện ra các yếu tố văn hóa- xã hội tác động tới NMDN và khách hàng của họ sử dụng bao cao su.Ở đây, nhà nghiên cứ đóng vai trò là người quan sát và ghi lại những thong tin mà đối tượng cung cấp chứ hoàn toàn không can thiệp vào các dữ liệu của bài nghiên cứu bằng cái nhìn chủ quan của mình.
2. Miêu tả nhấn mạnh đến bối cảnh.
Các nhà nghiên cứu định tính thường cung cấp các chi tiết miêu tả nhiều hơn các nhà nghiên cứu định lượng vì vai trò của việc hiểu bối cảnh là rất quan trọng để có thể hiểu được các hành vi xã hội. Trong bài nghiên cứu, hoạt động mại dâm ở Việt Nam tồn tại trong bối cảnh chính sách và các thiệt chế pháp luật nhằm xóa bỏ mại dâm. Mại dâm là bất hợp pháp và là tệ nạn xã hội, hủy hoại thuần phong mỹ tục của quốc gia, ảnh hưởng tới đời sống văn hóa- xã hội, gây ra bệnh AIDS và phải được loại trừ. Ngoài ra, việc sử dụng bao cao su hay không cũng bị chi phối trong bối cảnh văn hóa truyền thống, nơi mà người đàn ông là người thường đưa ra quyết định còn phụ nữ phải thực hiện theo.Việc đưa ra được một bối cảnh cụ thể trong nghiên cứu có thể cugn cấp them bằng chứng cho việc vận động thay đổi chính sách và chương trình hỗ trợ nhằm giảm thiểu nguy cơ và thay đổi hành vi để dự phòng HIV/AIDS cho MDN và khách hang của họ.
3. Nhấn mạnh đến quá trình:
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành các quan sát tổng thể và gặp gỡ trao đổi không chính thức với các đối tượng khác nhau ở 10 “điểm nóng” trong thời gian hơn 1 tháng. Bằng cách thâm nhập vào bối cảnh xã hội trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu có thể lưu ý đến yếu tố thời gian ảnh hưởng tới sự kiện như thế nào.
4. Tính linh hoạt và không có tính cấu trúc:
Bằng các phương pháp tham dự và phỏng vấn, nhà nghiên cứu có thể linh hoạt trong việc xử lí các dữ liệu mà cụ thể ở đây là những lí do khiến cho NMDN và khách hàng của họ có hay không sử dụng bao cao su. Nhà nghiên cứu không hề phải phụ thuộc vào bất cứ một công thức nào sẵn có để xác lập hệ thống lý thuyết cho đề tài nghiên cứu mà chỉ phụ thuộc vào các thông tin mà đối tượng cung cấp.
5. Các khái niệm và lí thuyết dựa trên dữ liệu:
Đối với các nhà nghiên cứu định tính, khái niệm và lí thuyết thường được quy nạp từ dữ liệu thu thập được. Các phát hiện trong nghiên cứu này cung cấp những bằng chứng thực tế củng cố việc nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố hoàn cảnh đối với việc chấp thuận các hành vi bảo vệ cho dự phòng HIV. Đồng thời, thông qua những dữ liệu thu thập được, nhà nghiên cứu có thể đưa ra các chứng cứ quan trọng nhằm góp phần vào việc phát triển các chính sách nhấn mạnh các chương trình can thiệp giảm tác hại được đưa ra trong chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
NHƯỢC ĐIỂM
1. Có quá nhiều tính chủ quan:
Trong bài nghiên cứu, nhà nghiên cứu bắt đầu bằng một phương thức tương đối mở là phỏng vấn sâu với 10 NMDN và 10 khách làng chơi. Trong đó tập trung vào đối tượng NMDN giá thấp với giả thuyết ban đầu là họ có thể có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn những đối tượng NMDN giá cao hơn vì họ hành nghề trong những điều kiện khó khăn và không có khả năng thương thuyết với khách hàng. Do dựa vào các quan điểm thường là không có hệ thống nên trong quá trình xử lí dữ liệu sẽ nghiêng về tính chủ quan của đối tượng nghiên cứu.
4. Thiếu sự minh bạch:
Việc các đối tượng tham gia trả lời phỏng vấn được giấu tên vì tính chất nhạy cảm của vấn đề và nhà nghiên cứu cũng không thể trình bày quá trình chọn lựa người quan sát hay đối tượng phỏng vấn là nguyên tắc nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu nên ta không xét vấn đề này . Tuy nhiên , sự thiếu sự minh bạch ở đây thể hiện qua cách thức chọn mẫu .Với cách thức chọn mẫu của phương pháp nghiên cứu định tính thì mẫu ban đầu ( hay mẫu mầm ) là mẫu mà nhà nghiên cứu cho rằng có tính chất phù hợp với vấn đề thông tin cần khai thác, như vậy mang tính chủ quan của tác giả . Với phương pháp khai thác thông tin từ việc tìm thêm mẫu nghiên cứu : khi đã có mối quan hệ thân quen với một đối tượng là gái mại dâm hay khách làng chơi có thể nhờ mối quan hệ đó để tìm thêm những mẫu nghiên cứu khác . Tuy nhiên , phương pháp này không thật sự minh bạch , khó có ai có thể kiểm chứng những thông tin thu thập được , từ đó dẫn đến việc xử lí thông tin cũng thiếu sự minh bạch .
Tôi Đang Ở Đâu Sự Khác Biệt Giữa こ Và ど Trong Tiếng Nhật
Tôi đang ở đâu Sự khác biệt giữa こ và ど trong tiếng Nhật: Today, chúng ta sẽ học cách phân biệt こ (doko de) và ど こ に (doko ni).
Doko có ý nghĩa tương tự như ở nơi mà tiếng Anh trong tiếng Anh. Tuy nhiên, tùy thuộc vào vị trí và tình huống, bạn phải chọn có gắn hạt Cúc de canh hoặc là ” ni.
Học tiếng Nhật – 5W1H – Từ câu hỏi tiếng Nhật – Cái gì, ở đâu, khi nào, ai, tại sao, như thế nào Học tiếng Nhật trực tuyến với BondLingo
Các hạt de được sử dụng ở đây để hỏi vị trí nào diễn ra một hành động.
Hành động là ăn ( taberu); do đó, chúng tôi sử dụng de khi hỏi hành động ăn uống diễn ra ở đâu. Khi trả lời, chúng tôi cũng sử dụng de nói rõ hành động diễn ra ở đâu, đó là ở tại McDonald.
A: Doko de hataraite imasu ka? (Bạn làm ở đâu?)B: Ginkou de hataraite imasu.(Tôi làm việc ở một ngân hàng.) A: Doko de Orimpikku ga hirakaremasu ka?(Thế vận hội sẽ được tổ chức ở đâu?)B: Tokyo de hirakaremasu. (Chúng sẽ được tổ chức tại Tokyo.)Trong các ví dụ trên, các hành động đang hoạt động ( hataraku) và tổ chức một sự kiện ( hirakareru [dạng thụ động của hiraku]). Chúng tôi muốn biết những hành động đó đang diễn ra ở đâu; do đó chúng tôi sử dụng de khi hỏi Chúng tôi cũng dùng de khi trả lời.
Doko de cũng có thể được sử dụng khi hỏi về một dịp hoặc tình huống không phải là địa điểm.
A: Doko de chiketto ga urarete imasu ka? (Họ bán vé ở đâu?)B: Raibu no Kaijou de urarete imasu.(Chúng được bán tại địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc.) A: Doko de eo kaemasu ka? (Tôi có thể mua bức tranh ở đâu?)B: Tenji-kai de kaemasu.(Bạn có thể mua nó tại triển lãm.)Trong các ví dụ trên, các hành động là bán vé ( urareru [dạng thụ động của bạn]) và mua tranh ( kaeru [hình thức tiềm năng của kau]). Triển lãm ( tenji-kai) và địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc ( raibu no kaijou) là các loại sự kiện / dịp, vì vậy chúng tôi sử dụng de khi trả lời.
Ở đây chúng tôi đang sử dụng ni thay vì de bởi vì chúng tôi đang hỏi nơi một địa điểm / sự vật cụ thể đang tồn tại. Khi hỏi nơi nào đó (hoặc tồn tại) có 2 đặc biệt động từ, あ る ( aru) và い る ( iru). Aru được sử dụng với những vật không sống (vật thể) và iru được sử dụng để sống, hít thở (người, động vật, bọ, v.v.). Do đó, khi sử dụng aru hoặc là iru, nhiều khả năng bạn sẽ sử dụng ni thay vì de.
Nhà ga Tokyo là một tòa nhà ở một vị trí cố định, và chúng tôi có thể chắc chắn rằng nó sẽ ở đó trong một thời gian khá dài. Chúng tôi muốn biết nó ở đâu; do đó, chúng tôi yêu cầu doko ni aru? Chúng tôi sử dụng aru bởi vì ga Tokyo là một thứ không sống.
A: Ninja wa doko ni imasu ka? (Các ninja ở đâu?)B: Gesuidou no naka ni imasu. (Họ đang ở trong cống.)Ở đây, chúng ta đang nói về ninja, đó là những sinh vật sống (tốt, họ sẽ là nếu họ ở xung quanh, dù sao đi nữa). Khi hỏi một người, động vật, hoặc sinh vật sống ở đâu, chúng ta sử dụng động từ iru. Các cống rãnh ( gesuidou) ở một vị trí cố định, do đó chúng tôi sử dụng ni khi nói rằng các ninja ở đó.
Một cảnh báo cho ni aru / iru ghép nối là nếu đối tượng là một sự kiện hoặc dịp, de được sử dụng thay thế.
A:Doko de erekutorikaru diễu hành ga arimasu ka?(Cuộc diễu hành điện ở đâu?)B: Disneyland de, erekutorikaru diễu hành ga arimasu. (Cuộc diễu hành điện ở Disneyland.)Điểm 3: ど こ Dokoni + động từ
Một cuộc diễu hành không ở một địa điểm cố định trong một thời gian dài và được coi là một sự kiện / dịp. Vì vậy, chúng tôi sử dụng de và làm theo nó với ga aru.
Ngoại trừ aru và iru, có một số phổ biến khác động từ kết hợp với ni. Những động từ là 住 む ( sumu [để sống]), 座 る ( suwaru [ngồi]) và く ( oku [để đặt]).
Chúng tôi sử dụng de cho Nihon bởi vì Nhật Bản ở một địa điểm cố định. Chúng tôi sử dụng ” doko ni và Osaka ni ngay bởi vì chúng được ghép nối với động từ sumu.
(LƯU Ý: Khi xin phép một cái gì đó, bạn liên hợp động từ để -te hình thành và làm theo nó với mo ii (desu ka)?
A: Kutsu wa, doko ni oite mo ii desu ka? (Tôi có thể đặt giày ở đâu?)B: Kutsu bako ni oite kudasai. (Vui lòng đặt chúng vào hộp giày.)Bây giờ bạn đã học cách phân biệt giữa doko de và doko ni, đã đến lúc ra khỏi đó và thực hành bạn đã học được gì Hỏi người Nhật chỉ đường, nơi họ sống / làm việc hoặc nơi họ thường làm một số hoạt động nhất định. Bắt đầu một cuộc trò chuyện, và vui vẻ làm điều đó!
Nhớ lại, thực hành làm cho hoàn hảo, vì vậy hãy ra khỏi đó và thực hành, thực hành, thực hành!
Học tiếng Nhật trực tuyến với BondLingo?
Học tiếng Nhật Trực tuyến với Trái phiếu?
Du học Nhật Bản?
Du học Nhật Bản?
10 Điểm Khác Biệt Chính Giữa Canon Eos Rp Vs Sony A7 Ii
Nếu bạn đang tìm kiếm một chiếc máy ảnh mirrorless full-frame phù hợp ngân sách thì sẽ không thể bỏ qua hai sản phẩm hấp dẫn này.
Canon EOS RP sử dụng cảm biến tương tự như máy ảnh DSLR EOS 6D mark II. Cảm biến 26.2MP nhưng cảm biến các ống kính micro đã được cập nhật để phù hợp hơn với thiết kế không gương lật.
EOS RP có phạm vi ISO rộng hơn 100 – 40.000, cộng với các giá trị mở rộng tới ISO 50 và ISO 102400.
Phạm vi ISO của Sony 100 – 25600 với tùy chọn mở rộng ISO 50.
Cả hai đều có thể ghi các tệp RAW 14 bit với tùy chọn nén hoặc không nén (được gọi là C-Raw trên mô hình RP).
2. Ổn định hình ảnh
RP không có chức năng ổn định cảm biến, do đó bạn cần sử dụng các ống kính có chức năng chống rung quang học hoặc các phụ kiện như gimbals để ổn định khi ghi hình ảnh.
Đối với video có một tùy chọn chống rung điện tử hoạt động với chống rung quang học. Điều này đã được thử nghiệm trên EOSR và kết quả rất tốt, liệu model RP mới có cung cấp được hiệu suất tương tự hay không vẫn cần thời gian trải nghiệm thực tế. Tuy nhiên, trường nhìn bị cắt khi sử dụng chống rung điện tử.
Sony A7 II có hệ thống chống rung 5 trục trong thân máy với 4.5 stop (CIPA). Trên thực tế đây là chiếc máy ảnh Sony full-frame đầu tiên được tích hợp công nghệ này.
Ưu điểm rõ ràng nhất so với Canon là khả năng sử dụng chống rung cảm biến với tất cả các loại ống kính, điều này rất thú vị nếu bạn thích điều chỉnh kính cổ điển chẳng hạn.
3. Tự động lấy nét
Cả hai máy ảnh đều có hệ thống lấy nét tự động với các điểm phát hiện pha.
Hệ thống tự động lấy nét trên EOS RP là Dual Pixel CMOS AF. Có 4779 điểm phân bố trên hầu hết toàn bộ bề mặt cảm biến (chiều rộng 88% và chiều cao 100%).
EOS RP có độ nhạy sáng thấp tốt hơn với mức đánh giá tối thiểu -5Ev với ống kính F1.2 (-3,5Ev ở f2) trong khi Sony hoạt động xuống -1Ev với ống kính f2.
Canon có tính năng nhận diện khuôn mặt và mắt hoạt động ở chế độ tự động lấy nét đơn và liên tục (Servo AF). Có sẵn cho ảnh tĩnh và video. Thật thú vị khi bạn chỉ có thể kích hoạt Eye AF ở chế độ Đơn trên chiếc EOS R đắt tiền hơn.
Một nhược điểm của EOS RP là khi quay ở 4K không thể tận dụng Dual Pixel CMOS AF. Máy ảnh sử dụng phát hiện độ tương phản thay thế sẽ thường chậm hơn nhiều.
4. Tốc độ chụp liên tiếp
MOdel RP có thể chụp liên tiếp 5fps. Nếu lấy nét liên tục, tốc độ khung hình tối đa là 4 khung hình / giây.
Riêng A7 II có thể thực hiện tối đa 5 khung hình / giây với AF liên tục. Cuối cùng, cả hai máy ảnh đều không cung cấp tốc độ chụp ấn tượng, nhưng chúng vẫn đủ tốt để ghi lại một số hành động.
Đối với bộ đệm, RP có thể quay với tốc độ 5 khung hình / giây cho đến khi thẻ đầy nếu bạn chọn JPG hoặc 50 tệp RAW ở tốc độ tối đa. A7 II kém hơn, cung cấp khoảng 50 khung hình ở chế độ JPG hoặc 20 tệp RAW được nén.
EOS RP có thể ghi video 4K ở tốc độ 24 hoặc 25 khung hình / giây và 120Mb / giây. Ở chế độ Full HD, tốc độ lên tới 60fps và 60Mbps.
A7 II không có tùy chọn 4K nhưng cũng có thể ghi lên tới 60p ở 1080p (50Mbps với codec XAVC S). Bạn có thể xem ví dụ về chất lượng video của A7 II trong video bên dưới.
Định dạng Full HD, cả hai máy đều sử dụng toàn bộ chiều rộng cảm biến (không cắt) trong khi ở 4K, RP áp dụng crop 1.6x (APS-C).
Ghi nội bộ được giới hạn ở mức nén 8-bit 4: 2: 0. Bạn nhận được thêm một chút thông tin màu sắc thông qua đầu ra HDMI với tỷ lệ 4: 2: 2 8 bit (yêu cầu ghi ngoài).
Như đã nêu trên, Dual Pixel CMOS AF phát hiện pha nhanh hơn của Canon không có sẵn cho video 4K.
A7 II được hưởng lợi từ các cài đặt bổ sung cho video như Picture Profiles và gamma S-Log2, trong khi Canon C-Log không khả dụng trên EOS RP.
RP có một tính năng bổ sung Video Snapshot, kết hợp các clip 4, 6 hoặc 8 giây thành một phim.
EOS RP lớn hơn một chút nhưng nhẹ hơn và không cao bằng model Sony. Cả hai máy ảnh đều có khung hợp kim magiê và có khả năng chống bụi và chống ẩm.
Mặc dù có kích thước nhỏ gọn, nhưng EOS RP có báng cầm phía trước lớn hơn có thể cầm thoải mái hơn so với Sony (yêu thích ít nhất trong số các mẫu máy không gương lật toàn khung hình).
Cả hai máy ảnh đều có hốc gắn đôi, núm quay điều khiển kép cho khẩu độ và tốc độ màn trập, nút quay video và các nút bổ sung có thể tùy chỉnh.
Sony có mặt số bù phơi sáng bổ sung ở trên cùng và hai nút tùy chỉnh. Ở phía sau, bạn có thể thấy cần gạt AF / MF-AEL, bên trong có một nút cung cấp tùy chỉnh bổ sung.
A7 II có hệ thống menu cũ của Sony khá khó sử dụng và cần một chút thời gian để làm quen. Menu EOS RP rất giống với menu của EOS R.
Bên cạnh đó cả hai máy ảnh chỉ có một khe thẻ SD nhưng EOS RP tương thích với loại UHS-II nhanh hơn.
Đồng thời cả Canon EOS RP vs Sony A7 II đều trang bị kết nối USB, HDMI và mic / headphone. RP sử dụng cổng USB C nhanh hơn.
Ngoài ra RP có kính ngắm nhỏ hơn (OLED 0.39″ so với 0.5″) nhưng độ phóng đại rất giống nhau (0.7x so với 0.71x) và độ phân giải là như nhau 2.36M điểm.
Đối với màn hình, màn hình Canon Touch cảm ứng và có thể lật sang một bên cũng như xoay 180˚. Sony chỉ có thể nghiêng lên hoặc xuống và thiếu khả năng cảm ứng.
7. Màn trập và các tính năng bổ sung
Máy ảnh mới nhất của Canon có một vài tính năng bổ sung như chức năng đo quãng và 4K Time-lapse. Và cũng có chế độ màn trập im lặng (điện tử) không giống như A7 II.
Sony không có nhiều lựa chọn các tính năng bổ sung theo mặc định nhưng bạn có thể triển khai một số tính năng đó bằng cách tải xuống ứng dụng PlayMemories Camera. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng đa số ứng dụng không miễn phí.
RP có khả năng ghi được 250 bức ảnh sau mỗi lần sạc vì sử dụng sử dụng loại pin LP-E17 cũ hơn và kém mạnh mẽ hơn.
A7 II cũng sử dụng pin Sony cũ (NP-FW50) nhưng có mức đánh giá tốt hơn khoảng 350 khung hình.
Bạn có thể tìm thấy kẹp pin chính thức cho Sony (VG-C2EM). Cả hai máy ảnh có thể được sạc qua USB. Cũng lưu ý rằng A7 II không đi kèm với bộ sạc pin riêng biệt.
EOS RP là một “thành viên” trong gia đình mirrorless mới của Canon. Hiện tại có bốn ống kính có sẵn và hãng cũng đã công bố sự phát triển của sáu chiếc nữa vào năm 2019. Tuy nhiên, hầu hết các ống kính này (zoom nhanh và số nguyên tố) đều khá đắt tiền.
Ống kính zoom có giá phải chăng nhất là 24-105mm nhưng vẫn ở mức khá cao khoảng $1000. Hệ thống máy ảnh cần ống kính kit giá cả phải chăng hơn có thể phù hợp hơn với máy ảnh như RP. Canon bao gồm bộ chuyển đổi RF sang EF trong hộp để bạn có thể sử dụng nhiều lựa chọn ống kính DSLR. Tuy nhiên với thiết kế nhỏ gọn của RP, giải pháp này có thể sẽ làm mất cân bằng máy ảnh.
A7 II cung cấp nhiều lựa chọn ống kính hơn và cũng có ống kính kit khiêm tốn (28-75mm f3.5-5.6). Có một số số tùy chọn có giá hợp lý và các dịch vụ bổ sung từ Zeiss, Samyang, Sigma và Tamron. Điều thứ hai đặc biệt lý tưởng là ống kính 28-75mm f2.8 có giá phải chăng.
Bạn cũng có thể sử dụng các ống kính DSLR cho A7 II (bao gồm cả ống kính Canon EF) thông qua ngàm chuyển của Sony hoặc bên thứ ba.
EOS RP ra mắt với mức giá $1299 (thân máy) tại Hoa Kỳ. Model A7 II có thể được tìm thấy ít hơn tại thời điểm này (khoảng $1000 giảm so với giá bán lẻ $1400).
Tại châu Âu, RP có giá £1400 / €1630, trong khi A7 II có thể được tìm thấy với giá khoảng £1000 / €1200. Giá này có thể thay đổi tùy thuộc vào quốc gia và đại lý.
EOS RP cung cấp nhiều tính năng hơn so với A7 II như video 4K, hệ thống lấy nét tự động tiên tiến hơn, màn hình LCD đa góc, màn trập im lặng và giao diện dễ sử dụng hơn.
Sony có lẽ đã bắt đầu cho thấy một số dấu hiệu bão hòa, nhưng tại thời điểm phát hành, nó là mô hình giá cả phải chăng hơn của cả hai. Ngàm E cũng cung cấp nhiều lựa chọn ống kính hơn.
Tuy nhiên về lâu dài, RP có thể trở thành một máy ảnh khó có thể cưỡng lại nếu bạn đang tìm kiếm một tùy chọn full-frame giá cả phải chăng. Hơn nữa RP là phiên bản mới gần đây nên ít nhiều vẫn sẽ thu hút nhiều sự quan tâm hơn.
(Mirrorless Comparision)
Tham gia cộng đồng ZSHOP GROUP – GIAO LƯU – CHIA SẺ – MUA BÁN MÁY ẢNH, MACBOOK để cập nhật nhiều thông tin công nghệ mới nhất và nhận được nhiều ưu đãi khuyến mãi hấp dẫn: https://www.facebook.com/groups/2352577538119725/
Canon EOS R vs Canon EOS RPCanon EOS RPCanon EOS RP vs Sony A7 IImáy ảnh Canon mirrorless
Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Hông Và Eo trên website Beyondjewelries.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!